Từ góc độ pháp lý, thuật ngữ “mua bán đất” lại không chính xác. Vậy vì sao không gọi là mua bán đất?
Vì sao không gọi là “mua bán đất”?
Dưới đây là một số lý do phổ biến:
- Sự khác biệt về quy định pháp lý: Trong một số quốc gia, cụ thể là trong lĩnh vực bất động sản, việc giao dịch đất được gọi là “mua bán đất” để mô tả hành động chuyển nhượng quyền sở hữu từ người bán cho người mua. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khác, có thể có các thuật ngữ và quy định pháp lý khác nhau, chẳng hạn như “chuyển nhượng đất” hoặc “thuê đất”.
- Yếu tố pháp lý và tài chính: Việc sử dụng thuật ngữ chính xác có thể quan trọng trong việc xác định các quyền và trách nhiệm pháp lý của các bên trong giao dịch. Một số quốc gia có các quy định cụ thể về việc sử dụng thuật ngữ “mua bán đất” và các yêu cầu liên quan, trong khi các quốc gia khác có thể sử dụng thuật ngữ khác nhau để mô tả các hành động tương tự.
- Thực tiễn ngữ cảnh và văn hóa: Ngoài các quy định pháp lý, cách gọi “mua bán đất” cũng có thể phản ánh thực tiễn ngữ cảnh và văn hóa của mỗi quốc gia. Trong một số trường hợp, các thuật ngữ khác nhau có thể được sử dụng tùy thuộc vào cách mà các bên tham gia thị trường bất động sản diễn đạt và hiểu biết về quy trình và điều kiện giao dịch.
Tóm lại, việc gọi “mua bán đất” hay bất kỳ thuật ngữ nào khác phụ thuộc vào ngữ cảnh và quy định pháp lý cụ thể của từng quốc gia, cũng như thực tiễn và văn hóa cụ thể trong lĩnh vực bất động sản.
Cụm từ pháp lý chính xác thay thế cho cụm từ “mua bán đất” là gì?
Theo Điều 430 Bộ luật Dân sự 2015, vì đất là loại tài sản đặc biệt, người dân chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và định đoạt (quyền bán), do vậy cụm từ pháp lý chính xác thay thế cho cụm từ “mua bán đất” chính là “chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Đó cũng chính là lý do giải thích tại sao “Sổ đỏ” có tên gọi pháp lý là “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Tuy nhiên, cần lưu ý pháp luật chỉ quy định rằng người dân không được toàn quyền định đoạt đối với đất.
Còn đối với tài sản gắn liền với đất bao gồm nhà ở, công trình xây dựng thì người dân có toàn quyền sở hữu và định đoạt. Nghĩa là người sử dụng đất sẽ có quyền bán nhà ở hoặc công trình trên đất thuộc quyền sở hữu của người sử dụng đất.
Người dân sẽ không được tham gia vào hoạt động mua bán mà chỉ có thể chuyển quyền sử dụng bởi:
– Đất thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện quản lý, làm chủ sở hữu. Không một cá nhân nào có quyền sở hữu riêng hoặc toàn quyền định đoạt đối với đất đai nên không thể thực hiện mua bán đối với đất.
– Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người dân, vì vậy khi thực hiện giao dịch sang tên nhà đất, người dân chỉ có thể thực hiện giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chứ không thể giao kết hợp đồng mua bán đất.
– Người dân vẫn được quyền thực hiện giao kết hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng mua bán căn hộ chung cư… bởi tài sản gắn liền với đất bao gồm nhà ở, công trình xây dựng thì người dân có toàn quyền sở hữu và định đoạt.